Mở mang bờ cõi Suleiman I

Khi Suleiman I lên ngôi, cả châu Âu đều thở phào nhẹ nhõm do nghĩ rằng vị Sultan mới là người uyên thâm, trầm lặng và ưa chuộng hòa bình. Tuy nhiên, họ đã nhầm: tuy thông thái và trầm tĩnh nhưng Suleiman I không phải là một ông vua hiếu hòa. Với chủ trương mở mang bờ cõi, ông đã trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của phương Tây.[12][13]

Chiến tranh ở châu Âu

Sự lên ngôi của Suleiman I đã mở đầu cho thời kỳ hoàng kim của đế quốc Ottoman.[14] Sau khi lên ngôi, Suleiman I bắt đầu một loạt cuộc chinh phạt, bao gồm việc dẹp cuộc nổi loạn của quan Tổng trấn thành Damascus do triều Ottoman lập nên năm 1521. Ban đầu, ông quyết định chiếm Beograd từ vương quốc Hungary. Trước kia, ông cố Suleiman I là Mehmed II đã vây hãm Beograd nhưng bị đánh bại. Việc đánh chiếm Beograd có ý nghĩa rất quan trọng trong công cuộc chinh phạt Hungary, thế lực mạnh cuối cùng ở vùng Balkan còn đối địch với đế quốc Ottoman sau khi các thế lực Đông La Mã, BungarySerbia bị tiêu diệt. Năm 1521, Suleiman bắt đầu xâm lược Hungary và lệnh cho hải quân Ottoman vây hãm Beograd. Pháo binh Ottoman từ một hòn đảo trên sông Donau ngày đêm nã pháo dữ dội vào thành phố. Cuộc chiến đấu rõ ràng là không cân sức: trong khi đối phương Ottoman thì có quân số đông đảo và hoả lực rõ ràng trội hơn quá nhiều thì quân thủ thành chỉ có 700 binh sĩ, đồng thời họ còn không nhận được tiếp viện từ Triều đình Hungary. Cuối cùng Beograd rơi vào tay quân Ottoman vào ngày 21 tháng 8 năm 1521.[15]

Tin tức về sự thất thủ của Beograd - một thành lũy quan trọng của các thế lực Kitô giáo - nhanh chóng lan khắp châu Âu. Đại sứ đế quốc La Mã Thần thánh tại Constantinopolis viết:[16]

Việc Beograd bị quân Ottoman chiếm là ngọn nguồn của mọi bi kịch xảy ra với Hungary sau đó. Nó dẫn đến cái chết của vua Lajos, đến việc thành Buda thất thủ, việc xứ Transilvania bị chiếm đóng, sự hủy diệt của một vương quốc phồn thịnh và nỗi sợ hãi của các quốc gia lân cận rằng họ có thể cũng sẽ chịu một số phận tương tự…

Con đường tiến vào Hungary và Áo rộng mở, nhưng Suleiman lại chuyển tầm nhìn sang đảo Ródos ở miền đông Địa Trung Hải, nơi hoạt động của các Hiệp sĩ Cứu tế, hoạt động như cướp biển của họ gần Tiểu Á và vùng Levant đã là một vấn đề nhức nhối đối với người Ottoman trong nhiều năm. Mùa hè năm 1522, thấy mình có khả năng lãnh đạo hải quân mà ông thừa hưởng từ cha, Suleiman phái một hạm đội gồm 400 chiến thuyền, phần mình thì dẫn 10 vạn quân vượt Tiểu Á để đến vùng đối diện đảo Ródos.[17] Sau 5 tháng vây hãm với nhiều trận đánh khốc liệt, Ródos đầu hàng. Các Hiệp sĩ đảo Ródos được Sultan Suleiman I cho phép rút lui yên bình khỏi đây. Họ thiết lập một căn cứ mới ở đảo Malta sau đó.

Thấy quan hệ giữa Hungary và đế quốc Ottoman trở nên xấu hơn, Suleiman I tiếp tục chiến dịch ở Đông Âu và vào ngày 29 tháng 8 năm 1526,[14] ông đánh bại vua Lajos II của Hungary (1506 – 1526) trong trận đánh quyết định tại Mohács,[12] Quân đội Hungary bị hủy hoại,[18] còn bản thân vua Lajos II Jagiellon cũng tử vong. Lajos II là vị vua độc lập cuối cùng của xứ Hungary và Bohemia.[19] Thảm bại tại Mohács sau cùng là cái chết của Lajos khiến cho sức kháng cự của Hungary nhanh chóng sụp đổ; và đế quốc Ottoman trở thành một cường quốc thống trị tại Đông Âu.[20] Theo sử sách, khi trông thấy thi thể bất động của Lajos, Suleiman I đã tỏ thái độ thương cảm với ông vua xấu số:

"Ta vốn đem quân đội đến để chống lại hắn; nhưng ta không hề có ý muốn kết liễu cuộc đời của hắn trong khi hắn chỉ vừa mới cảm nhận được hương vị ngọt ngào của cuộc sống và của vương vị".[21]

Hôm sau Sultan viết vào nhật ký của ông:

"Trẫm ngự trên ngai, các đại thần (vizier) và chúa đất (bey) cùng lễ bái, 2.000 tù binh bị thảm sát, mưa đổ như trút".[22]


Chiến thắng Mohacs được xem là thắng lợi lớn nhất của Suleiman I và có ảnh hưởng rất lớn đến châu Âu, do hiếm ai nghĩ rằng người Thổ sau khi chiếm được Beograd có thể thọc sâu vào Trung Âu đến vậy.[23] Sau thắng lợi, vào ngày 10 tháng 9 năm 1526, ông chiếm được thành Buda (Ofen) mà không gặp phải bất kỳ một sự kháng cự nào.[24] Ông lấy rất nhiều chiến lợi phẩm, trong đó có thư viện của vua Hungary Matthias Corvinus được xem là một trong những thư viện quý giá nhất thời ấy, và buộc quý tộc Hungary phải đầu hàng. Sultan kéo quân về đế đô Constantinopolis vào tháng 11 năm 1526 trong sự vẫy chào nồng nhiệt của thần dân, đánh dấu chiến bại của người Kitô giáo. Ông chỉ để lại một đồn binh duy nhất ở Petrovaradin.[25] Với các chiến thắng Beograd, Ródos và Mohács và sự xâm nhập của quân Ottoman vào thế giới Kitô giáo, Suleiman I vững tin rằng ông là vị vua vĩ đại nhất thời ấy..[25] Nhưng dưới quyền Karl V và em là Ferdinand, Đại công tước Áo, triều đình Habsburg đã đoạt lại Buda (1527) và chiếm lĩnh Hungary. Kết quả là Suleiman I lại phải vượt thung lũng sông Donau, lấy lại Buda vào ngày 8 tháng 9 năm 1529. Mùa thu năm đó, ông xua 125000 quân Ottoman - Hungary chinh phạt nước Áo và vây hãm kinh thành Viên từ tháng 9 đến tháng 10. Đó là chiến dịch quân sự tham vọng nhất của đế quốc Ottoman thời đó và cũng đánh dấu điểm xa nhất mà cường quốc này vươn tới Trung Âu. Nhưng rồi, chỉ với một đạo quân thủ thành chừng 16 nghìn binh sĩ[26] đế quốc Áo khiến Suleiman nếm phải thất bại đầu tiên, và cũng từ đó gieo mối hận thù dai dẵng giữa hai nước, tồn tại mãi cho tới tận đầu thế kỷ XX.[27] Vào ngày 16 tháng 10 năm 1529, mùa đông đến, Sultan phải rút quân khỏi Viên.[14] Cuộc triệt binh này trở thành một thảm họa. Sau đó, vào năm 1532 Suleiman I cũng thử tấn công thành Viên lần thứ hai nhưng cũng không thành. Nguyên do của hai lần thất bại một phần lớn là vì thời tiết xấu nên quân đội Ottoman không thể đem đầy đủ thiết bị công thành cần thiết đến chiến trường.[28]

Vào thập niên 1540 sự thay đổi của chiến sự ở Hungary đã khiến Suleiman I có thời cơ để trả thù cho chiến bại tại thành Viên. Một số quý tộc Hungary tôn Ferdinand, Đại công tước Áo (1519 - 1564) làm vua Hungary. Ferdinand là chồng của Anna Jagellonica, chị gái Lajos II, và một hiệp ước trước đó đã quy định nếu Lajos chết mà không có con nối dõi thì Ferdinand làm vua Hungary.[29] Tuy nhiên, một bộ phận khác vẫn trung thành với nhà quý tộc János Szapolyai, người được Suleiman I ủng hộ nhưng các thế lực Ki-tô giáo châu Âu không công nhận.

Vua HungaryJános Zsigmond gặp Suleiman năm 1556.

Năm 1541 chiến tranh Ottoman-Habsburg lại nổ ra, Vương triều Habsburg xua quân tấn công Buda. Suleiman I phản công và nhanh chóng đánh đuổi được quân của Ferdinand, đế quốc La Mã Thần thánh lại để mất thêm nhiều thành trì khác[30] và họ chỉ còn nắm giữ được miền bắc Hungary. Kết quả là Ferdinand và Karl buộc phải ký một hiệp ước 5 năm với đế quốc Ottoman, theo đó Ferdinand từ bỏ ngôi vua Hungary và phải triều cống hàng năm cho Sultan, với tư cách là một lãnh chúa trên lãnh thổ Hungary. Ngoài ra trong hiệp ước còn có điều khoản quy định người Ottoman không công nhận Karl là "Hoàng đế" mà chỉ là "Vua Tây Ban Nha", còn Suleiman I mới là người danh chính ngôn thuận giữ tước hiệu cao quý "Hoàng đế La Mã" (Caesar).[31] Năm 1552, Suleiman sai hai tướng Ahmet Pasha và Ali Pasha đem quân từ Edirne đánh phá thành Eger của Hungary. Trận chiến mở đầu vào ngày 9 tháng 9; 400 quân trú phòng Hungary được sự giúp sức của nhiều nông dân đã bẻ gãy hàng loạt đợt tấn công của quân Thổ, gây tổn hao rất nhiều binh tướng cho họ. Sau 40 ngày quyết chiến, quân Thổ thua chạy về Hungary, nhưng người Hungary cũng không còn sức đánh vào đất Thổ.[32]

Với việc các kẻ thù Âu châu liên tiếp bị đánh bại, đế quốc Ottoman nhanh chóng trở thành một thế lực đáng sợ trên bức tranh chính trị châu Âu.

Chiến tranh với nhà Safavid

Bức tiểu họa về cảnh Sultan Suleiman hành quân ở Nakhchivan, vào mùa hè năm 1554

Sau khi Suleiman ký Hiệp ước Constantinopolis với các kẻ thù châu Âu thì ông nhanh chóng chuyển chú ý của mình sang Ba Tư, do nhà Safavid thuộc hệ phái Shi'a trị vì. Có hai nguyên nhân trực tiếp châm ngòi cho cuộc chiến tranh Ottoman - Safavid: Thứ nhất, vua Tahmasp I của Ba Tư sai người ám sát Tổng đốc thành Bagdad - một người thân Thổ - và thay thế bằng một nhân vật thân Ba Tư. Thứ hai, Tổng đốc thành Bitlits làm phản và chạy về phe Ba Tư.[33] Ngay lập tức, năm 1533, Suleiman hạ lệnh cho Tể tướng Ibrahim Pasha xua quân tấn công Bitlits và sau đó lấy luôn cả Tabriz mà không gặp phải bất cứ sự kháng cự đáng kể nào. Sang năm sau, Suleiman hội quân với Ibrahim và đánh thẳng vào lãnh thổ Ba Tư, tuy nhiên Tahmasp không giao chiến trực diện với Suleiman mà áp dụng chiến thuật rút lui bảo toàn lực lượng, đồng thời cho quân quấy nhiễu các cánh quân Ottoman khiến cho cuộc tiến quân trở nên rất khó khăn.[34] Cuối cùng, năm 1535, thành Bagdad cũng đầu hàng và thừa nhận Suleiman I là minh chủ tối cao của thế giới Hồi giáo, truyền nhân của các khalip nhà Abbas.[35]

Với quyết tâm đánh dứt điểm Ba Tư, Suleiman khởi xướng chiến dịch Ba Tư thứ nhì (1548 - 1549). Một lần nữa, Tahmasp lại áp dụng chiến thuật rút lui và quấy nhiễu, khiến quân đội Ottoman phải trải qua một mùa đông khó khăn tại dãy núi Kavkaz.[34] Suleiman buộc phải bỏ dở chiến dịch nhưng ông đã giành được (dù là tạm thời) các vùng đất Tabriz, Azerbaijan thuộc Ba Tư, Van và một phần Gruzia.[36] Năm 1549, Suleiman I ca khúc khải hoàn trở về kinh đô Constantinopolis.

Đến năm 1553 Suleiman lại khởi xướng chiến dịch Ba Tư. Vốn đã mất Erzurum về tay con trai Tahmasp, Suleiman nhanh chóng phản công, đoạt lại Erzurum rồi vượt qua sông Euphrates và tàn phá một phần lãnh thổ Ba Tư. Vua Tahmasp I lại tiếp tục chiến thuật như trước và kết quả là chiến cuộc trở nên dằng co. Cuối cùng hai bên ký Hiệp ước Amasya (1555), trong đó Suleiman đồng ý trả lại Tabriz nhưng được giữ toàn bộ miền đông Tiểu Á, Lưỡng Hà, thành phố Bagdad và một phần duyên hải Vịnh Ba Tư.[37] Ngoài ra Ba Tư và Ottoman cũng cam kết sẽ không bao giờ tấn công nhau nữa.[38]

Các chiến dịch ở Ấn Độ Dương và Ấn Độ

Chiến thuyền Ottoman ở Ấn Độ Dương vào thế kỷ XVI.

Các chiến thuyền Ottoman đã bắt đầu dương buồm ra Ấn Độ Dương kể từ năm 1518 sau khi họ chiếm được Ai Cập từ vương triều Mamluk. Các Đô đốc Ottoman như Hadim Suleiman Pasha, Seydi Ali ReisKurtoğlu Hızır Reis được biết là đã ghé đến các cảng Thatta, Surat và Janjira của Đế quốc Mogul. Hoàng đế Mogul Akbar cũng được biết là đã có trao đổi sáu tài liệu với Suleiman Đại đế.[39][40][41]

Ấn Độ Dương, Suleiman I phát động vài chiến dịch nhằm đánh đuổi người Bồ Đào Nha ra khỏi khu vực này và thiết lập lại con đường giao thương với Ấn Độ. Năm 1538 quân Ottoman chiếm AdenYemen để biến nơi đây thành bàn đạp cho những cuộc đột kích vào các thuộc địa Bồ Đào Nha ở bờ biển phía Tây Ấn Độ.[42] Trên đường đến Ấn Độ, hải quân Ottoman bị Bồ Đào Nha đánh bại trong cuộc vây hãm Diu vào tháng 9 năm 1538, nhưng sau đó họ rút về cố thủ tại Aden và củng cố hệ thống phòng ngự của họ tại đây với 100 khẩu pháo.[42][43] Từ căn cứ này, Sulayman Pasha làm chủ toàn xứ Yemen, đồng thời chiếm giữ Sa'na.[42] Tuy nhiên sau đó người dân Aden nổi dậy chống lại đế quốc Ottoman và cầu cứu kẻ thù của họ - Bồ Đào Nha, vì vậy người Bồ lại kiểm soát thành phố này cho đến khi nó bị Piri Reis chiếm lấy trong cuộc xâm chiếm Aden (1548).

Việc nắm vững quyền kiểm soát khu vực Biển Đỏ đã giúp Suleiman I phần nào giành được quyền khống chế con đường giao thương với Ấn Độ từ tay người Bồ Đào Nha và duy trì mối quan hệ giao thương ở mức độ đáng kể với Ấn Độ trong suốt thế kỷ XVI.[44] Năm 1552, đô đốc Piri Reis chỉ huy hạm đội Ấn Độ Dương đã chiếm được thành Muscat từ tay người Bồ Đào Nha.[45]

Từ năm 1526 đến năm 1543, Süleyman đã cho đóng quân hơn 900 lính Thổ Nhĩ Kỳ để chiến đấu bên cạnh Vương quốc Hồi giáo Adal do Ahmad ibn Ibrahim al-Ghazi dẫn đầu trong cuộc chiến chống lại Abyssinia (Ethiopia). Sau cuộc chiến Ajuran-Bồ Đào Nha lần thứ nhất, đế quốc Ottoman dần dần sáp nhập Vương quốc Adal đang dần vào lãnh thổ của mình. Sự mở rộng này đã củng cố uy quyền của nhà Ottoman tại Somalia và Sừng châu Phi. Điều này cũng mở rộng ảnh hưởng của đế quốc tại Ấn Độ Dương để cạnh tranh với Đế quốc Bồ Đào Nha và giúp biên giới Ottoman xích gần đến biên giới của vương quốc Ajuran đồng minh.[46]

Năm 1564, có phái bộ sứ thần xứ Aceh (Indonesia ngày nay) đến Ottoman và thỉnh cầu Suleiman giúp đỡ họ trong cuộc kháng chiến chống Bồ Đào Nha. Suleiman đã nhận lời và phát động Cuộc viễn chinh của Ottoman vào Aceh, việc này đã cung cấp sự ủng hộ về quân sự rất đáng kể cho những người Aceh.[47]

Việc các nước Tây Âu phát hiện các tuyến thương mại hàng hải mới đã cho phép họ né tránh được sự độc quyền thương mại của người Ottoman. Sự phát hiện Mũi Hảo Vọng của người Bồ Đào Nha năm 1488 đã khởi xướng một loạt cuộc chiến tranh trên biển giữa người Ottoman và người Bồ Đào Nha ở Ấn Độ Dương trong suốt thế kỷ XVI. Vương quốc Hồi giáo Ajuran ở Somali liên minh với nhà Ottoman đã thách thức độc quyền kinh tế Bồ Đào Nha ở Ấn Độ Dương bằng cách đưa vào sử dụng một loại tiền xu mới theo kiểu Ottoman, do đó tuyên bố một thái độ độc lập về kinh tế đối trước người Bồ Đào Nha.[48]

Chiến tranh ở Bắc Phi và Địa Trung Hải

Barbaros Hayreddin Pasha đại phá Liên minh Thần thánh dưới quyền Andrea Doria trong trận Preveza năm 1538François I (trái) và Suleiman Đại đế (phải) đã khởi xướng liên minh Pháp-Ottoman vào thập niên 1530.

Trong khi đang dốc sức củng cố những vùng đất mới chiếm được, Suleiman I nhận được hung tin: thành KoroniMorea (Peloponnese hiện nay) bị mất vào tay của Andrea Doria, Đại Đô đốc Hải quân của hoàng đế Karl V. Sự hiện diện của hải quân Tây Ban Nha trên biển Địa Trung Hải làm cho Suleiman tỏ ra lo lắng. Ông xem đó là dấu hiệu cho thấy Karl muốn tranh đoạt quyền thống trị Địa Trung Hải với đế quốc Ottoman. Suleiman cũng nhận thấy rằng Hải quân Ottoman cần phải được tăng cường mạnh mẽ hơn nữa để đảm bảo ưu thế của người Thổ Nhĩ Kỳ tại khu vực này, vì vậy, ông bổ nhiệm Khair ad Din (còn được biết đến với tên gọi Barbaros Hayreddin Pasha) làm Đại Đô đốc Hải quân Ottoman. Barbaros nhanh chóng tiến hành việc tăng cường và xây dựng Hải quân Ottoman, đến mức khiến cho Hải quân Đế quốc này có số lượng ngang bằng với tất cả các nước Địa Trung Hải.[49] Năm 1535, Karl V đoạt lại Tunis, một thành trì quan trọng của Quân đội Ottoman. Vào năm 1536, chiến tranh với Cộng hòa Venezia nổ ra khiến Suleiman I phải chấp nhận liên minh với vua François I của Pháp nhằm cùng chống nhau với Karl V.[33] Vào năm 1538, Barbaros Hayreddin đánh tan tác hải quân Tây Ban Nha trong trận đánh lừng lẫy tại Preveza. Các chiến thắng tại Preveza (1538) và Djerba (1565) sau đó khiến cho Đế quốc Ottoman vẫn duy trì quyền thống trị Địa Trung Hải suốt 33 năm cho đến khi diễn ra trận Lepanto năm 1571.

Phía đông Maroc và một phần lãnh thổ Bắc Phi bị sáp nhập vào bản đồ Ottoman. Các quốc gia người Berber tại Tripolitania, Tunisia, và Algérie trở thành các tỉnh tự trị của đế quốc, đóng vai trò như một tiền đồn trong cuộc chiến chống Karl V - vị Hoàng đế đã thất bại trong mưu đồ đuổi quân Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi Tunisia năm 1541.[50] Những hoạt động của cướp biển người Berber tại Bắc Phi cũng được xem là một phần trong cuộc chiến chống lại hải quân Tây Ban Nha. Các hoạt động bành trướng của Suleiman I cũng giúp cho Hải quân Ottoman thống trị Địa Trung Hải trong một thời gian ngắn. Thậm chí, họ còn kiểm soát cả Biển ĐỏVịnh Ba Tư cho đến khi bị đế quốc Bồ Đào Nha đánh bại. Quân Bồ Đào Nha đã đánh chiếm Ormus (nằm trên Vịnh Hormuz) năm 1515 và tiếp tục tranh giành Aden (ngày nay là Yemen) với Triều đình Suleiman I.

The Siege of Malta in 1565: Arrival of the Turkish fleet, do Matteo Perez d' Aleccio sáng tác

Năm 1542, để chống lại kẻ thù chung khi đó là triều đại Habsburg, François I đã nối lại liên minh Ottoman-Pháp. Năm 1543, Suleiman hạ lệnh cho hải quân của Barbaros Hayreddin dẫn 100 chiến thuyền galley phối hợp với hải quân Pháp ở Tây Địa Trung Hải.[51] Barbaros trước tiên đem quân đánh phá bờ biển của Napoli và đảo Sicilia, trong khi đó François I thì biến cảng Toulon thành một căn cứ của hải quân Ottoman trên đất Pháp. Tiếp sau đó liên quân Ottoman-Pháp phối hợp đánh chiếm Nice - một thành phố của đế quốc La Mã Thần thánh. Nhưng đến năm 1544 liên minh giữa François I và Suleiman I tạm thời chấm dứt do François đã ký hòa ước với đế quốc La Mã Thần thánh. Vào năm 1547, triều đình Ottoman tái lập hoà bình với Giáo hoàng Phaolô V, Áo, Venezia và Pháp.[14]

Sau khi Ródos thất thủ (1522), đảo Malta trở thành căn cứ mới của các Hiệp sĩ Cứu tế. Tại đây họ tiếp tục phát động những cuộc tấn công chống lại lực lượng hải quân Hồi giáo và điều này khiến cho người Thổ nổi giận. Trước tình hình đó, Suleiman I đưa một đạo quân gồm 4 vạn người đến đánh Malta (1565), nhằm loại trừ vĩnh viễn mối họa từ các Hiệp sĩ Cứu tế.[52] Cuộc đại vây hãm Malta được quân Ottoman thực hiện trong suốt gần 4 tháng (18 - 5 đến 8 - 9 - 1565), và được mô tả hết sức sinh động trong các tranh tường của Matteo Perez d'Aleccio trong đại sảnh St. Michael và St. George. Kịch bản lặp lại gần giống chiến thắng của quân Ottoman tại Rodós trước kia khi hơn một nửa các hiệp sĩ tử trận tại Malta và gần như toàn bộ các pháo đài trên đảo bị phá hủy. Nhưng, Turgut Reis qua đời trong cuộc vây hãm và đến phút cuối hải quân Ottoman bị các hiệp sĩ và viện binh từ Tây Ban Nha đập tan, rồi phải rút khỏi Malta với 25 nghìn binh sĩ thiệt mạng.[53] Tuy Malta tồn tại, nhưng trong khi xứ Algérie (1529) và xứ Tripoli (1551), đều lọt vào tay Đế quốc Ottoman khi đó, sau này họ sẽ còn chiếm được xứ Síp (1571) và đoạt lại xứ Tunis (1574).[19]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Suleiman I //nla.gov.au/anbd.aut-an35812390 http://www.bartleby.com/67/794.html http://www.bartleby.com/67/795.html http://books.google.com/books?id=KrsmNygcbNgC&pg=P... http://books.google.com/books?id=Ovg_RQlklU4C&pg=P... http://books.google.com/books?id=UVmsI0P9RDUC&pg=P... http://books.google.com/books?id=neUKEvaYPZYC&pg=P... http://www.jimdiamondmd.com/malta_history.htm http://www.malta.com/about-malta/history-of-malta.... http://uk.encarta.msn.com/encyclopedia_761575054_2...